Giảm đau đa mô thức là gì? Các công bố khoa học về Giảm đau đa mô thức

Giảm đau đa mô thức là một kỹ thuật y tế được sử dụng để giảm đau và cải thiện chất lượng cuộc sống cho các bệnh nhân bị đau từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Đây...

Giảm đau đa mô thức là một kỹ thuật y tế được sử dụng để giảm đau và cải thiện chất lượng cuộc sống cho các bệnh nhân bị đau từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Đây là một phương pháp toàn diện tiếp cận nhằm giảm đau bằng cách kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, như sử dụng thuốc, thực hiện vật lý trị liệu, tâm lý học và các biện pháp khác để tác động đến nhiều khía cạnh của đau.

Phương pháp giảm đau đa mô thức thường được áp dụng cho những trường hợp đau mãn tính, khi đau kéo dài hơn 3 tháng và không phản ứng tốt với điều trị đơn giản bằng thuốc. Kỹ thuật này hướng đến việc giảm đau, nâng cao chất lượng sống và hỗ trợ tăng cường khả năng vận động của bệnh nhân thông qua sự kết hợp cẩn thận của các phương pháp điều trị và quản lý đau.
Phương pháp giảm đau đa mô thức bao gồm nhiều phương pháp và kỹ thuật được kết hợp để đạt được hiệu quả tối đa trong việc giảm đau và quản lý đau. Dưới đây là một số phương pháp thường được sử dụng trong kỹ thuật này:

1. Sử dụng thuốc: Bao gồm sử dụng các loại thuốc chống viêm, thuốc giảm đau, thuốc gây tê, thuốc chống co giật và các loại thuốc khác để giảm triệu chứng đau. Có thể kết hợp sử dụng các loại thuốc để tăng hiệu quả giảm đau và giảm tác dụng phụ.

2. Vật lý trị liệu: Sử dụng các phương pháp như liệu pháp nhiệt, phương pháp điện, liệu pháp vật lí, khớp học, và phương pháp giãn cơ để làm giảm đau và cải thiện khả năng vận động của bệnh nhân.

3. Tâm lý học: Sử dụng tâm lý trị liệu, giảm căng thẳng và lo lắng, và một số kỹ thuật tâm lý khác để giúp bệnh nhân điều chỉnh và chấp nhận đau một cách tốt hơn.

4. Thực hành và hướng dẫn: Hướng dẫn bệnh nhân về các phương pháp quản lý tự nhiên như yoga, tai chi, tập thể dục, thực hành thể dục học, và các kỹ thuật thực hành khác để cải thiện thể chế và giảm đau.

5. Can thiệp tư vấn: Tư vấn bệnh nhân về cách thay đổi lối sống, quản lý stress và triệu chứng đau trong các hoạt động hàng ngày.

Quan trọng nhất, phương pháp giảm đau đa mô thức yêu cầu một quy trình chăm sóc và điều trị kỹ lưỡng, được cá nhân hóa cho từng bệnh nhân và tập trung vào cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "giảm đau đa mô thức":

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU ĐA MÔ THỨC TRÊN SẢN PHỤ MỔ LẤY THAI TẠI BỆNH VIỆN SẢN-NHI TỈNH QUẢNG NGÃI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Giảm đau sau phẫu thuật lấy thai (PTLT) liên quan đến sự hài lòng của sản phụ đặc biệt là giảm đau đa mô thức bằng morphin tủy sống kết hợp paracetamol truyền tĩnh mạch và diclofenac đặt hậu môn sau PTLT. Bệnh viện Sản-Nhi Quảng Ngãi cũng đã sử dụng phương pháp này trong một thời gian dài, tuy nhiên chưa có đề tài nghiên cứu đánh giá hiệu quả thực sự của giảm đau đa mô thức trên sản phụ phẫu thuật lấy thai tại bệnh viện. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả giảm đau cho Sản phụ. Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá hiệu quả giảm đau morphin tủy sống kết hợp paracetamol truyền tĩnh mạch và diclofenac đặt hậu môn sau phẫu thuật lấy thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp lâm sàng có so sánh 02 nhóm là Nhóm M: Gây tê tủy sống bupivacaine 0,5 % 8 mg, fentanyl 20 mcg, phối hợp 100mcg morphin. Nhóm F: Gây tê tủy sống bupivacain 0,5% 8 mg, fentanyl 20 mcg. Sau phẫu thuật lấy thai cả 2 nhóm được sử dụng: paracetamol 1g/100 ml truyền TM giờ thứ 4 và giờ thứ 16; diclofenac 100 mg đặt hậu môn giờ thứ 10 trên sản phụ được gây tê tủy sống (GTTS) để PTLT tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Quảng Ngãi từ tháng 04/2020 đến 09/2021. Kết quả: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của sản phụ: Chỉ định PTLT vì vết mổ cũ chiếm tỉ lệ cao; nhóm M 46,6%, nhóm F 45%; nguyên nhân phẫu thuật do đường sinh dục (chuyển dạ không tiến triển, thai to, bất xứng đầu chậu) chiếm tỉ lệ 30% ở nhóm M và 18,3% ở nhóm F. Tuổi thai trung bình ở 2 nhóm M và F lần lượt là 38,7 ±0,93 và 39 ± 0,94. Đặc điểm sinh hiệu trước và trong phẫu thuật giữa 2 nhóm tương đương nhau. Thay đổi về tổng phân tích tế bào máu và sinh hóa giữa 2 nhóm trong giới hạn bình thường và không có sự khác biệt, có ý nghĩa thống kê. Hiệu quả giảm đau: Hiệu quả giảm đau trong phẫu thuật giữa 2 nhóm có sự khác biệt. Nhóm M có hiệu quả giảm đau tốt, đạt 96,7%; khá là 3,3%. Nhóm F, hiệu quả giảm đau tốt là 86,7%. Trong 2 giờ đầu sau phẫu thuật điểm đau VAS trung bình khi nghỉ ngơi và vận động đều nhỏ hơn 1. Điểm đau VAS trung bình khi nghỉ ngơi và vận động từ giờ thứ 2 tới giờ thứ 24 ở nhóm M nhỏ hơn nhóm F. Thời gian duy trì điểm đau VAS bằng 0 ở nhóm M kéo dài hơn nhóm F có ý nghĩa thống kê. Ở nhóm M điểm đau VAS bằng 0 kéo dài 118,33 ± 39,10 phút. Đa số các sản phụ đều hài lòng về chất lượng giảm đau ở mức tốt và rất tốt. Kết luận: Giảm đau đa mô thức kết hợp morphin tủy sống, paracetamol truyền tĩnh mạch và diclofenac đặt hậu môn mang lại hiệu quả giảm đau tốt với thời gian giảm đau hoàn toàn kéo dài và điểm đauVAS trung bình trong suốt 24 giờ luôn < 2.
#Giảm đau đa mô thức #Phẫu thuật lấy thai #Mổ lấy thai
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU ĐA MÔ THỨC BẰNG GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ NGANG BỤNG DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM KẾT HỢP CÁC THUỐC GIẢM ĐAU ĐƯỜNG TOÀN THÂN SAU PHẪU THUẬT LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Morphin khoang dưới nhện được xem là “tiêu chuẩn vàng” trong giảm đau sau phẫu thuật lấy thai (PTLT), tuy nhiên nó gây ra nhiều tác dụng không mong muốn. Phương pháp giảm đau đa mô thức giúp giảm đau hiệu quả đồng thời giảm các tác dụng không mong muốn. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả giảm đau đa mô thức bằng gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng dưới hướng dẫn siêu âm kết hợp các thuốc giảm đau đường toàn thân sau PTLT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đối chứng, 180 sản phụ (SP) sau PTLT được chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm lần lượt là Para-TAP, Diclo-TAP và Para-Diclo. Nhóm Para-TAP được dùng paracetamol kết hợp gây tê mặt phẳng cơ ngang bụng (gây tê TAP), nhóm Diclo-TAP được dùng diclofenac đường trực tràng kết hợp gây tê TAP, nhóm Para-Diclo được dùng paracetamol kết hợp diclofenac đường trực tràng. Cường độ đau được đánh giá theo thang điểm đau nhìn hình đồng dạng (VAS) tại các thời điểm 1, 2, 4, 6, 8, 12, 18, 24 giờ và theo thang điểm hoạt động chức năng (FAS) trong 24 giờ sau phẫu thuật, thống kê tỉ lệ yêu cầu giải cứu đau và các tác dụng không mong muốn của các phương pháp. Giải cứu đau bằng 5 mg morphin tiêm tĩnh mạch chậm khi điểm VAS nghỉ ≥ 4 hoặc VAS vận động ≥ 5. Kết quả: Về điểm đau VAS, các SP có điểm đau từ 3 trở xuống trong nhóm Para-TAP chiếm tỉ lệ cao lúc nghỉ,  nhưng thấp khi vận động; trong khi đó nhóm Diclo-TAP và Para-Diclo chiếm tỉ lệ cao cả lúc nghỉ ngơi và vận động; nhóm Para-TAP hiệu quả hơn nhóm Para-Diclo từ 4 - 6 giờ đầu; nhóm Para-Diclo hiệu quả hơn nhóm Para-TAP từ 12 - 24 giờ; nhóm Diclo-TAP hiệu quả hơn nhóm Para-Diclo từ 2 - 8 giờ. Nhóm Para-TAP có điểm FAS đạt mức A chiếm 90% trong khoảng thời gian từ 1 - 8 giờ, hơn 50% từ 8 - 16 giờ, hơn 60% từ 16 - 24 giờ; có 23,33% SP cần giải cứu đau. Nhóm Diclo-TAP có điểm FAS đạt mức A chiếm 100% trong khoảng thời gian từ 1 - 8 giờ, gần 80% từ 8 - 24 giờ; có 10% SP cần giải cứu đau. Nhóm Para-Diclo có điểm FAS đạt mức A chiếm gần 70% trong khoảng thời gian từ 1 - 16 giờ, gần 90% từ 16 - 24 giờ, có 10% SP cần giải cứu đau. Tác dụng không mong muốn chiếm tỉ lệ thấp và mức độ nhẹ ở  3 nhóm. Kết luận: Nhóm Para-TAP có hiệu quả giảm đau tốt trong 8 giờ đầu, nhóm Diclo-TAP có hiệu quả giảm đau tốt trong 24 giờ và tốt hơn nhóm Para-Diclo trong 8 giờ đầu sau phẫu thuật, tác dụng không mong muốn của các nhóm chiếm tỉ lệ thấp và mức độ nhẹ ở  3 nhóm.
#Phẫu thuật lấy thai #giảm đau đa mô thức #paracetamol #diclofenac #gây tê TAP
Short-term outcome of multimodal analgesia in post-hepatectomy care for hepatocellular cancer patients
Mục tiêu: Đánh giá kết quả của phương pháp giảm đau sau mổ đa mô thức trong chăm sóc bệnh nhân phẫu thuật cắt gan. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 53 bệnh nhân được phẫu thuật cắt gan tại Khoa Phẫu thuật Gan - Mật - Tụy, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, từ tháng 03/2023 đến tháng 7/2023. Bệnh nhân được thực hiện giảm đau bằng 1 trong các phương pháp sau tại phòng mổ (1) PCA ngoài màng cứng (2) PCA đường tĩnh mạch (3) Tê thấm vết mổ; phối hợp giảm đau đường tĩnh mạch: Paracetamol 1g kết hợp nefopam 20mg mỗi 6 giờ trong 3 ngày đầu sau mổ, và uống Ultracet 325/37,5mg những ngày sau đó hoặc truyền tĩnh mạch nefopam 20mg mỗi 6 giờ trong 3 ngày đầu sau mổ và uống nefopam 20mg với bệnh nhân có chống chỉ định dùng paracetamol. Đánh giá hiệu quả giảm đau của phương pháp bằng thang điểm VAS, các tác dụng không mong muốn có thể xảy ra. Kết quả: Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 55,25 ± 14,7. Tỉ lệ nam giới là 81,1%. Phần lớn các bệnh nhân có ASA II (92,5%). Thời gian phẫu thuật trung bình là 152,2 ± 56 phút, 100% bệnh nhân có chỉ số sinh tồn ổn định và bình thường. Bệnh nhân đau ở mức độ nhẹ và vừa phải ở cả trạng thái tĩnh và động, sau đó mức độ đau giảm dần từ ngày thứ 3. Bắt đầu từ giờ 16, có 34% bệnh nhân có thể vận động đi lại ngoài hành lang và tăng dần đến ngày thứ 5 có 100% bệnh nhân có thể hoạt động bình thường. Mức độ rất hài lòng 73,7%, hài lòng 26,4%. Kết luận: Giảm đau đa mô thức trong chăm sóc sau phẫu thuật cắt gan điều trị ung thư gan cho hiệu quả rất tốt, phù hợp với tiêu chí của ERAS, góp phần nâng cao hiệu quả chăm sóc và điều trị.
#Giảm đau đa mô thức #giảm đau ngoài màng cứng #giảm đau PCA #phẫu thuật cắt gan
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU ĐA MÔ THỨC SAU PHẪU THUẬT NỘI SOI TRONG VÀ SAU PHÚC MẠC LẤY THẬN GHÉP Ở NGƯỜI HIẾN SỐNG
Tạp chí Y - Dược học quân sự - Tập 48 Số 6 - Trang 87-97 - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu hiệu quả giảm đau đa mô thức trên người tình nguyện khỏe mạnh sau phẫu thuật lấy thận ghép bằng phương pháp phẫu thuật nội soi (PTNS) trong hoặc sau phúc mạc. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 52 người tình nguyện hiến thận (TNHT) sau phẫu thuật được sử dụng phương pháp giảm đau đa mô thức theo phác đồ chung bao gồm các thuốc paracetamol, nefopam và fentanyl đường tĩnh mạch bệnh nhân (BN) tự điều khiển (patient-controlled analgesia - PCA). Hiệu quả giảm đau được đánh giá thông qua thang điểm nhìn hình đồng dạng (visual analog scale - VAS); tổng lượng fentanyl tiêu thụ qua PCA. Kết quả: Tại thời điểm sau rút nội khí quản (NKQ), số người TNHT có điểm đau VAS < 4 (VAS = 2 hoặc 3) là 45 (80,36%) và VAS ≥ 4 (VAS = 4 hoặc 5) là 11(19,64%); tại các thời điểm sau mổ từ H0 - H24: 100% người TNHT có VAS < 4; điểm đau VAS cao nhất tại thời điểm H0 và H1; không có sự khác biệt về điểm đau VAS giữa nhóm PTNS trong và ngoài phúc mạc (p > 0,05). Lượng fentanyl trung bình tiêu thụ qua PCA và tổng lượng fentanyl tiêu thụ trung bình để giảm đau trong 24 giờ là 60,2mcg và 288,9mcg. Người TNHT nhóm PTNS trong phúc mạc cần giảm đau bổ sung nhiều hơn so với nhóm sau phúc mạc đặc biệt tại thời điểm H1 (10,3mcg so với 21,8mcg) và H2 (23,9mcg so với 35mcg) (p > 0,05). Kết luận: Phương pháp giảm đau đa mô thức sử dụng paracetamol, nefopam và fentanyl PCA đường tĩnh mạch BN tự điều khiển có hiệu quả giảm đau tốt, là một lựa chọn ưu việt trong thực hành lâm sàng, giúp kiểm soát cơn đau ở người TNHT sau PTNS lấy thận ghép một cách hiệu quả.
#Giảm đau đa mô thức #Giảm đau bệnh nhân tự điều khiển (PCA) #Phẫu thuật nội soi lấy thận ghép
Tác dụng chống viêm, giảm đau của dây gắm (Gnetum montanum Markgr.) trên động vật thực nghiệm
Tạp chí Y Dược cổ truyền Việt Nam - Tập 47 Số 1 - Trang 44-51 - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá tác dụng kháng viêm, giảm đau của cao chiết dây Gắm. Phương pháp: tác dụng kháng viêm được nghiên cứu trên 2 mô hình gây phù chân chuột bằng Carragenin và gây phù bằng FCA; tác dụng giảm đau được nghiên cứu trên mô hình mô hình gây đau quặn và phương pháp tail-immersion.Kết quả: cả 3 mức liều thử nghiệm 150mg/kg, 250mg/kg và 500mg/kg cao chiết dây Gắm thể hiện tác dụng kháng viêm cấp và viêm mạn, có tác dụng giảm đau trung ương và ngoại biên trên động vật thực nghiệm.
#Dây Gắm #chống viêm #giảm đau
Tổng số: 6   
  • 1